Con Trăn – Đặc điểm sinh học, giá trị kinh tế, cách chăm sóc

Con trăn là loài vật hữu ích trong tự nhiên và được con người khai thác, săn bắt và nuôi từ các năm nay. Trong bài viết này, Chomeocanh.com sẽ chia sẻ với bạn đọc về các đặc điểm sinh học của loài trăn. Cũng như giá trị kinh tế của con trăn mang lại, cách nuôi và phòng tránh những bệnh thường gặp của trăn. Hãy cùng đón đọc nào

Mật độ – Phân bổ của loài trăn

Trăn là loài bò sát khá phổ biến và có mặt ở hầy khắp lãnh thổ nước ta, kể cả một số đảo lớn nằm trên biển như Cát Bà, Côn Đảo, Phú Quốc. Nhưng do việc mở mang đô thị, các khu cư dân và công nghiệp và nhất là do việc khai hoang mở rộng diện tích đất đai canh tác nên môi trường sống của trăn ngày bịthu hẹp. Ở các tỉnh phía Bắc, chúng ta chỉ có thể tìm thấytrăn ở các tỉnh trung du và miền núi với số lượng không đáng kể. Số liệu điều tra động vật ở tỉnh Hòa Bình cho thấy hàng năm mỗi xã chỉ có thể bắt được từ 1-2 con. Ở các tỉnh phía Nam trăn còn khá phong phú ở nhiều nơi, nhất là dọc ven sông Vàm Cỏ Đông, vùng nông trường Lê Minh Xuân-Đức Hòa-Đức Huệ nối tiếp qua vùng Đồng Tháp Mười (Mộc Hóa, Đồng Tràm); vùng Đồng Xoài (Sông Bé), Ba Thê-Núi Sập (An Giang); vùng rừng tràm U Minh và rừng đước Nam Căn (Minh Hải).

Những người săn bắt trăn chuyên nghiệp vùng Đức Hòa – Đức Huệ (Long An) cho biết, trong những năm 1975 – 1976 có thể bắt được 50 – 60 con nhưng sang năm 1978 giảm xuống 20 – 30 con, thậm chí còn 5 – 10 con. Theo số liệu của xuất nhập khẩu lâm thổ sản cho biết, trong năm 1978 ba tỉnh Tiền Giang, Hậu Giang và Kiên Giang đã thu mua được 11.677m da trăn. Sang năm 1979 có thêm ba tỉnh Long An, An Giang và Đồng Tháp đã nâng tổng số da xuất lên 33.293m. Cũng trong năm đó, hải sản tỉnh Tiền Giang đã thu mua được một lượng trăn sống lên tới 32.000 kg. Trong những năm 1980 – 1982 Xí nghiệp liên hợp dược tỉnh Minh Hải đã thu mua được 3 – 5 tấn trăn mỗi năm trên địa phận tỉnh nhà.

Những con số trên đây cho thấy trăn còn khá phổ biến và sản lượng khai thác trăn hàng năm là một con số đáng kể. Nhưng từ năm 1984 trở lại đây chúng ta đã không thu mua dược hay thu mua được không đáng kể da và trăn sống. Rõ ràng là trăn đã ngày càng trở nên hiếm và nguồn lợi trăn trong những năm gần đây bị giảm sút trầm trọng.

Nơi ở của trăn

Nơi ở thích hợp của Trăn là rừng thưa, rừng núi đá thấp và rừng cây bụi tái sinh. Trăn thích những nới râm mát, có bóng cây gần nước như bờ sông, suối, đầm, hồ.

Ở đồng bằng Nam Bộ trăn ưa sống ở những nơi hoang dã như bưng biền, đầm lầy, rừng tràm, rừng sú vẹt ngập nước, lung, bào … Nhưng nhiều khi người ta cũng phát hiện thấy trăn xâm nhập vào các khu vườn cây có người ở. Trăn không sống trong hang mà thường tìm các hốc cây, hốc đá hay bụi rậm trong các đám cỏ để trú ẩn. Đôi khi cũng gặp chúng quấn mình trên cây.

Hoạt động chu kỳ ngày và mùa của loài trăn

Cũng như nhiều loài bò sát khác, trăn là những động vật ưa ấm và ẩm, chịu được một cách dễ dàng với nhiệt độ cao về mùn hè. Ngược lại chúng rất nhạy cảm với lạnh. Chính vi vậy mà ở trăn hình thành chu kỳ hoạt động khá rõ rệt. Ở các tỉnh phía Bắc về mùa đông trăn phải tìm những nơi kín đáo để trú ẩn qua mùa đông giá rét. Còn ở đồng bằng Nam bộ, trong mùa khô trăn phải chịu rúc xuống đất hoặc vùi mình dưới cát lớp cỏ, để tránh ảnh hưởng của nóng và khô ráo. Trong suốt thời gian trú đông và trú khô, trăn nằm yên một chỗ, động tác hô hấp không trông thấy rõ ràng, quá trình trao đổi chất giảm xuống ở mức thấp nhất, và năng lượng cung cấp cho sự sống lúc này chủ yếu là do khối lượng mỡ được tích trữ vào cuối mùa thu hay cuối mùa mưa.

Người ta đã theo dõi thấy trăn Pytlion molurus là loài có khả năng chịu được biên độ giao động nhiệt khá rộng; chúng có thể phát triển tốt ở nhiệt độ 20 – 35°C và có thể tồn tại ở những nơi có nhiệt độ ngày 12 –  15°C vàbanđêmxuống tới 10°C. Trong chuồng nuôi, do việc tác động bằng các . điều hòa nhiệt độ, độ ẩm, thức ăn … nên chu kỳ hoạt động mùa của trăn không thể hiện rõ ràng.

Chu kỳ hoạt động ngày biểu hiện khá rõ nét. Trăn hoạt động chủ yếu về ban đêm còn ban ngày thường tìm những nơi kín đáo đểẩn nấp. Trong chuồng nuôi, chúng ta sẽ quan sát thấy trăn suốt ngày nằm quấn tròn thành một cục, ngủ li bì. Thời gian bắt đầu hoạt động trong ngày thay đổi và tùy thuộc vào lứa tuổi. Nói chung trăn nhỏ ra kiếm ăn sớm hơn trăn trưởng thành.

Thức ăn và cách thức săn mồi của con trăn

Thành phần thức ăn của trăn khá đồng nhất, bao gồm chủ yếu các động vật có máu nóng như chim (bồ câu, gà, vịt,…), thú có guốc nhỏ (heo, cheo, mễn…), các loài gặm nhấm, khỉ. Đã có trường hợp trăn tấn công cả ngựa vằn và chó núi. Ngoài ra trăn còn ăn cả ếch nhái và bò sát cảnh khác. Không ít người tin rằng trăn cỏ khả năng quấn vào 2 thân cây rồi dùng thân mình tát nước như một chiếc gàu dây để bắt cá. Điều này hoàn toàn không thể xảy ra vì dễ dầu gì trăn tìm được 2 thân cây mọc gần nhau cho vừa tầm cỡ kích thước chiều dài của nó, vã lại trăn cũng không ăn cá bao giờ.

Khi phân tích trên 100 dạ dày của trăn, chúng tôi nhận thấy 100% số dạ dày đều có chứa lông và xương chuột và có những dạ dày chứa tới 2 – 3 con chuột cùng một lúc. Khi nuôi và theo dõi với các loại thức ăn khác nhau, chúng tôi cũng đã xác định được chuột là loại thức ăn hợp khẩu vị nhất và giúp trăn tăng trọng mau nhất. Song có điều đặc biệt là đối với chuột xạ và chuột cống lang thì trăn có thể giết chết nhưng kiên quyết không ăn.

Quan sát một con trăn trong tư thế bắt mồi là một điều thú vị. Thông thường trăn chỉ nằm yên một chỗ để rình mồi, rấtít khi di động. Do màu sắc thích nghi với môi trường xung quanh mà trăn có thể ngụy trang rất khéo léo trước con mồi. Khi con mồi đã lọt vào tầm phục kích thì nhanh như chớp, nó phóng phần trước của thân tới để chụp lấy và sau đó dùng thân quấn chặt cho tới khi con mồi chết ngạt. Nạn nhân càng dãy dụa chống cự bao nhiêu, càng kích thích trăn xiết chặt bấy nhiêu. Chỉ vài phút sau, con vật xấu số tắt thở, khi đó trăn mới chịu nới ra, dùng lưỡi lần mò để tìm cho được phần đầu và bắt đầu nuốt. Nhờ có cấu tạo đặc biệt của . xương hàm và khả năng giản nở của da mà trăn có thể nuốt được của những con mồi có đường kính lớn hơn đường kính thân của nó. Chẳng hạn một con trăn vừa nở ra từ trứng dài 50-60cm sau một tuần lễhơn 10 ngày biết ăn đã có thể nuốt được một con chuột hay một con vịt nặng 20-30g. Khi lớn lên tới 3m, nó có thể nuốt mội con thỏ nặng 3-4kg, một con mèo hay một con gà lớn. Khi đạt tới 6m và nặng 82kg, nó có thể nuốt một con heo nặng 34kg. Thật là một kỉ lục về sự phàm ăn.

Sau khi ăn no, trăn tìm đến những nơi yên tĩnh, nằm đểtiêu hóa thức ăn. Nhờ có tác dụng mạnh của men tiêu hóa trong dạ dày mà cơ và xương được tiêu hóa hết, chỉ còn lại chất cứng (móng, lông) được thải ra ngoài. Quá trình tiêu hóa xảy ra trong vài ngày, chậm nhất là mội tuần. Tuy vậy, trong trường hựp không tìm được thức ăn, trăn cũng có khả năng nhịn đói hàng tháng. Người ta đã theo dõi trong vườn thú thấy một con trăn đất có thể nhịn đói trên 1 năm, một con nưa nhịn đói tới 2 năm rưỡi và một con trăn núi Châu Phi nhịn đói tới 2 năm 9 tháng.

Nước là một yếu tố cần thiết cho đời sống của trăn, tuy rằng nhu cầu không nhiều và thường xuyên vì lượng nước có trong thức ăn đã đủ cho nhu cầu của cơ thể. Sau khi ăn xong, trong quá trình tiêu hóa trăn cần uống nước. Những ngày nóng bức và đặc biệt khi sắp thay da trăn ưa trầm mình trong nước. Nước giúp cho quá trình lột xác mau chóng và dễ dàng hơn; thiếu nước lớp vẩy sừng thường bị sát khó bong. Vì vậy trong chuồng nuôi cần thiết phải có một chậu nước cho trăn.

Sự sinh sản của trăn

 Cúng giống như các loài trăn khác, việc phân biệt một con trăn đực với một con trăn cái thật không đơn giản vì chúng có hình dạng và màu sắc gần giống nhau, mặt khác chúng lại có cơ quan sinh sản nằm bên trong cơ thể nên rất khó nhận biệt. Phải quan sát khá tinh vi và ít nhiều có cặp mắt nhà nghề ta mới nhận thấy ở những con trăn đực thường có đuôi dài hơn và phần đầu của đuôi (nơi tiếp giáp với hậu môn) hơi phình ra, trong khi ở con cái thì hơi thắt lại. Kích thước và trọng lượng của trăn đực cũng thường nhỏ hơntrăn cái, số vẩy bụng ít hơn nhưng có đuôi dài và số lượng vẩy dưới đuôi nhiều hơn.

Trăn đực còn có hai mấu cựa nằm hai bên khe huyệt trông tựa như chiếc cựa ở chân gà, có lẽ là một cơ quan dung để kích thích trăn cái khi giao phối. Trong một số trường bợp lại xuất hiện sự khác biệt về màu sắc: con đực có những hình vẽ đậm nét và sặc sở hơn; nhưng nếu hoàn toàn căn cứ vào màu sắc thường cũng không chính xác vì trăn có thể thay đổi màu sắc ít nhiều tùy thuộc vào môi trường và vùng phân bố địa lý.

Cách phân biệt trăn đực cái:

Trăn đực Trăn cái
– Cựa 2 bên hậu môn dài, lộ rõ ra ngoài

– Vẩy hậu môn to, chop vẩy tù

– Vẩy quanh hậu môn nhỏ, xếp sít nhau

– Khi ấn tay mạnh vào 2 bên huyệt thấy có cơ quan giao cấu lộ ra

Cơ thể thuôn dài.

– Cựa 2 bên hậu môn ngắn, nằm ẩn sâu trong hốc.

– Vẩy hậu môn nhỏ, chóp vẩy hơi nhọn

– Vẩy quanh hậu môn to và xếp không sít nhau

– Không có cơ quan giao cấu

 

– Cơ thể mập mạp.

Thông thường trăn sống đơn độc. Chỉ đến mùa sinh sản những con trăn đực và trăn cái mới tìm đến nhau. Từ cờ thểcủa trăn cái tiết ra một chất có mùi đặc biệt; những con trăn đực phát hiện ra nhờ một cơ quan cảm giác đặc biệt nằm trong hóc mũi. Để thực hiện được chức năng này, chiếc lưỡi chẽ đôi của trăn đóng vai trò rất đặc biệt.Không phải chỉ có một mà có thể 5-7 trăn đực cùng lặng lẽ tìm đến bên một con trăn cái. Một cuộc “đọ sức tranh tài” sẽ xảy ra. Cuối cùng chỉ có một con đực giao phối nhưng những con đực còn lại cùng quấn lên nhau thành một cục lớn. Cuộc giao hoan kéo dài hàng giờ. Những người thợ săn gọi là trăn hội và mùa trăn giao phối là mùa trăn hội, xảy ra từ tháng 9 – tháng giêng âm lịch (đối với vùng Minh Hải). Ở các tỉnh phía Bắc có thể sớm hơn, từ khoảng 3 – 8 âm lịch. Đây cũng là thời kỳ mà trăn bị săn bắt nhiều nhất.

Sau khi giao phối khoảng 79 – 96 ngày sau trăn bắt đầu đẻ trứng. Trứngtrăn màu trắng đục, có lớp vỏ dai bao bọc bên ngoài, kích thước 7-10 cm, trọng lượng 120-130 g. Mỗi năm trăn đẻ một lứa với số lượng từ 8-60 trứng hoặc hơn. Số lượng trứng tùy thuộc vào kích thước của trăn cái, những con lớn đẻ nhiều hơn bởi vì kích thước trứng của con nhỏ và con lớn đều gần như nhau. Sau khi đẻ xong, trăn dùng thân khoanh tròn lại thành một cái ổ, bao bọc và bảo vệ lấy trứng, đầu luôn luôn nằm bên trên. Trong tư thế đó, trăn ấp khoảng 2 tháng (có thể sớm hoặc trễ hơn vài ngày) thì trăn con ra đời. Trong suốt thời gian đó, trăn hoàn toàn không ăn uống, tính tình trở nên hung dữ và thận trọng hơn. Một hiện tượng khá đặc biệt là trong quả trình ấp trứng, các cơ thân co giật liên tục làm cho thân nhiệt của nó cao hơn nhiệt độ của môi trường xung quanh 7 – 10°C.

Trăn con nở ra không cùng mội lúc, mà có thể kéo dài một tới hai ngày. Nhờ có chiếc răng sừng mà nó mổ rách vỏ trứng, thò đầu ra ngoài. Như ngỡ ngàng trước một thế giới hoàn toàn mới lạ, trăn con không bò ngay ra ngoài mà còn nằm trong trứng vài giờ như để nghe ngóng và thăm dò thế giới xung quanh. Những con trăn con ra đời, xa rời trăn mẹ ngay và thường bò xuống nước. Ít ngày sau xảy ra lần lột xác đầu tiền và khoảng 7 – 10 ngày sau khi lượng noãn hoàng của trứngcòn sót lại đã tiêu hóa hết, trăn mới bắt đầu ăn mồi. Con trăn mẹ sau một thời gian dài ấp ủ trứng, trở nên gầy rạc và kiệt sức, giờ đây không có chút quan tâm gì tới đàn con, bản năng hung dữ của nó cũng biến mất.

Không phải tất cả số lượng trứng đều nở thành trăn con mà qua theo dõi, chúng tôi nhận thấy chỉ có khoảng 50%, cá biệt lên tới 80 – 90%. Số trứng còn lại, hoặc là không được thụ tinh, hoặc là phôi bị chết trong quá trình ấp và thường là những trứng đẻ sau cùng trong một lứa đẻ. Trăn con mới nở dài 50 – 60 cm, nặng 80 – 140g. Kinh nghiệm cũng cho thấy những con trăn dưới 80g thường yếu ớt và khó nuôi sống được.

Trăn lột xác như nào

Lột xác là một quá trình quan trọng xảy ra trong suốt đời sống của trăn cũng như ở tất cả các loài rắn khác. Theo thời gian, cơ thểtrăn ngày một lớn lên nhưng lớp vẩy sừng bên ngoài thì không lớn và cản trở sự phát triển đó, vì vậy chúng phải lột xác giống như ta thay mội chiếc áo cũ đã quáchật. Bên cạnh đó lột xác còn là quá trình “tự làm vệ sinh” vì khi lột nó sẽ loại bỏ đi các yếutố ngoại kí sinh như ve, mò, nấm mốc và các mầm bệnh ngoài da khác. Qua theo dõi, chúng tôi thấy hiện tượng lột xác ở trăn không xảy ra theo một quy luật nhất định mà phụ thuộc vào tuổi, mùa vụ, nhiệt độ và chế độ dinh dưỡng cũng như tùy thuộc vào từng cá thể một. Những con trăn non lột xác nhiều hơn trăn già và mùa hè lột xác nhiều hơn mùa đông.

Biểu hiện của sự lột xác là da có màu sậm mốc, mắt trở nên đục mờ, trăn ngừng ăn và ưa thích trầm mình dưới nước. Toàn bộ quá trình xảy ra trong vòng một đến hai tuần lễ. Trong thời gian này tính tình của trăn trở nên hung dữ, do đó trong khi chăm sóc làm vệ sinh chuồng trại ta cần thận trọng.

Sau khi lột xác xong, trăn sẽ có bộ da với màu sắc sặc sở nhất, và trong điều kiện cóánh sáng tốt, chúng ta sẽ thấy nó lấp lánh ánh kim. Biểu hiện rõ rệt nhất là ở loài trăn mắt võng (nưa). Sau một vài tuần, màu sắc trở nên sậm lại.

Xin lưu ý, có trường hợp chúng ta gặp những con trăn thường xuyên lột xác, khoảng cách giữa 2 lần lột xác rất gần nhau, đó là những con trăn bị mắc bệnh da hay do một sự biến đổi về hormol da nào đó. Hiện tượng này làm cho trăn ngày một suy yếu, do đó đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên theo dõi và có sự chăm sóc đặc biệt.

Tăng trưởng, kích thước và tuổi thọ của loài trăn

Khác với nhiều động vật khác sẽ ngưng tăng trưởng khi đã thành thục sinh dục còn trăn (và các loài rắn) vẫn tiếp tục lớn lên trong suốt đời sống của mình mặc dù giai đoạn sau có chậm hơn. Sự gia tăng về kích thước và trọng lượng của cơ thể phụ thuộc chủ yếu vào thức ăn, nhiệt độ và ánh sáng. Chính vì vậy mà người ta nhận thấy trăn có kích thước lớn hầu như chỉ tập trung ở vùng nhiệt đới xích đạo.

Trong những năm đầu trăn lớn khá mau. Chẳng hạn một con trăn khi mới nở dài 60 cm, sau 2 tháng là 85 cm, sau 5 tháng 100cm và sau 1 năm đo được 120-130 cm. Clifford Pope, một nhà nghiên cứu về bò sát sống nhiều năm ở châu Á, khi theo dõi sự tăng trưởng của một con trăn đất mà ông ta đã nuôi trong nhiều năm, cho chúng ta những số liệu chính xác sau đây: ngày 10 tháng 2 năm 1946 đo được 102 cm, một năm sau đó đạt được 175cm, cuối tháng 9-1947 dài 251 cm, cuối tháng 5-1948 đã lên tới trên 3m. Sau đó nó bắt đầu lớn chậm lại cho tới tháng 10-1956 nó đạt được kích thước 360 cm (sau 11 năm bi giam giữ). Một tác giả khác đã nuôi con trăn mắt võng sau 9 năm đã tăng từ 2m lên hơn 5m và một con trăn núi Châu Phi sau 10 năm cũng từ l,2m lên 4,5m.

Những số liệu trên đây giúp cho ta mường tượng được phần nào tốc độ phát triển của trăn nhưng rất còn dè dặt vì không thể so sánh được tốc độ tăng trưởng một con trăn bị giam giữ trong chuồng nuôi với những con trăn ngoài thiên nhiên, nơi mà có chế độ thức ăn và các điều kiện tự nhiên khác nhau nhiều. Thông thường những con trăn nuôi mập mạp hơn.

Vậy kích thước tối đa của một con trăn là bao nhiêu? Trả lời câu hỏi này thật không dễ dàng! Một con trăn sống ít khi nào chịu nằm yên chongười ta đo đạc nó, trong khi đó những con trăn nằm trong các viện bảo tàng thường bị méo mó do tác động của con người. Người ta đã kiểm chứng gỉữa những bộ da và con vật khi còn sống, thấy mức độ sai lệch có khi tới 20% và những con trăn bắt được mà người ta cho là to lớn nhất thì chắc gì đà là những nhà vô địch trong tự nhiên vì những con trăn lớn thường sống nơi hoang da và có kinh nghiệm ẩn náu để lẩn tránh kẻ thù.

Trong họ hàng trăn cỏ hai nhà đương kim vô địch là Trăn mắt võng (Python reticulatus) và Trăn Anaconda (Eunecte nuirinus) đều có thể dài tới 10m và hơn, kế đến là trăn đất (Python molurus bivittatus) dài 8m, còn trăn đất Ấn Độ (Py- thon molurus molurus) và trăn Boa (Boa constrictor) ít khi dài tới 5m, các loài trăn còn lại đều dài không quá 4m. Trên báo chí ở khắp nơi thường xuất hiện những con số giật gân về những con trăn dài 15 – 20m. Những người thợ rừng ở U Minh cũng có kể chuyện về những con trăn to bằng chiếc khạp đựng đường… Nhưng có điều thực tế thú vị là cách đây nhiều năm Hội động vật Mỹ có treogiải thưởng 5000 đô la cho những ai bắt được một con rắn dài 10 thước. Đáng tiếc thay, giải thưởng hấp dẫn này cho tới nay vẫn chưa có người đoạt được.

Trăn có thể sống được bao nhiêu tuổi, Trước đây người ta cho rằng, tất cả các con vật có kích thước lớn đều có tuổi thọ cao. Song điều đó chỉ đúng với rùa, đặc biệt là những giống rùa khổng lồ có thể sống tới 200 tuổi. Còn cá sấu, voi vàtrăn thì không thể sống quá một đời người. Dựa vào kết quả theo dõi ở các vườn thú và của các nhà nuôi trăn lâu năm, cho thấy các loài trăn chỉ có thể sống được 30 – 40 năm.

Tập tính của loài trăn

Trăn là một loài bò sát hiền lành, hoạt động chậm chạp. Khi ăn no thường nằm một chỗ để tiêu hóa, còn trong chuồng nuôi trănthường dồn đống nằm chồng chất lên nhau, Trong thời gian này trăn rất “lỳ”, dù bị trêu chọc cũng không có phản ứng gì. Cho nên nhân dân đi rừng gặp trăn lúc này bắt rất dễ dàng.

Ngược lại cũng có những lúc tính tình của trăn trở nên hung dữ, chẳng hạn khi trăn bị bỏ đói lâu ngày, khi lột xác và khi canh giữ trứng. Vì vậy khi chăm sóc làm vệ sinh chuồng trại trong những lúc này ta cần phải thận trọng. Câu chuyện trăn quấn người tuy là rất hiếm nhưng không phải là hoang đường. Wall đã ghi nhận trường hợp một em bé bị trăn ăn thịt ở Trung Hoa. Còn trong các vườn thú, không ít lần những người chăm sóc bị trăn tấn công.

Có điều đặc biệt là trăn (cũng như nhiều loại rắn khác) rất nhạy cảm với mùi thuốc lá và một số loại tinh dầu (sả, củ néng, tỏi, salyxilat de methyl…). Vì vậy trong chuồng nuôi trăn không nên có các chất này; nhưng nếu trong trường hợp bì trăn cắn, bạn chỉ việc nhét một nhúm thuốc rê (hoặc thuốc điếu) vào miệng, lập tức trăn sẽ nhả ra. Bạn chỉ cần xử lý qua vết cắn bằng các loại thuốc sát trùng (cồn, iod hoặc thuốc tím) và đừng sợ hăi vì trăn (kể cả nưa) đều không có nọc độc.

Trăn có khả năng thuần dưỡng và huấn luyện được không? Theo nguyên tắc chung thì khi muốn thuần dưỡng và huấn luyện một loài động vật nào đó, người ta thường bắt đầu từ những con vật còn nhỏ chưa trưởng thành. Và cũng như những trẻ em, các loài vật đều ưa thích sự dịu dàng, vuốt ve trìu mến. Do đó đòi hỏi người chăm sóc con vật phải thực sự yêu mến nó, hơn thế nữa phải hiểu được các đặc tính sinh học của loài và của từng cá thể.

Đối với trăn là một động vật thuộc lớp Bò sát có cấu tạo cơ thể chưa phát triển cao. Não bộ chỉ chiếm một tỉ lệ rất nhỏ so với trọng lượng cơ thể. Hai bán cầu não và tiểu não có liên quan tới trí nhớ và các hoạt động phức tạp cũng rất nhỏ. Vì vậy ở loài trăn chưa có được trí khôn để có thể “học và nhớ” được những những gì mà người ta dạy cho nó.

Những gánh hát xiệc sơn đông, nhữngngườibánthuốccao đơn hoàn tán rong thường mang theo bên mình những con trăn và cố chứng tỏ rằng người ta có thể điều khiển được chúng. Kỳ thực dân chúng bu lại chỉ vì tính hiếu kỳ và người ta “thưởng thức” tiếng la hét cùng với những điệu bộ “dương oai múa võ” của người chủ hơn làđược xem những gì con trăn làm được: trong trạng thái ăn no, nó chỉ nằm im một chỗ.

Trong chuồng nuôi, chúng ta chỉ có thể biến một con trăn hoang dã thành một con trăn nhà bằng cách cho nó ăn no đều đặn, tiếp xúc và chăm sóc nó hàng ngày và tạo những điều kiện thuận lợi khác cho nó sinh sống.

Giá trị kinh tế của con trăn

Trăn là một trong những động vật hoang đã có giá trị kinh tế cao ở nước ta và là một nguồn lợi thiên nhiên quan trọng ở đồng bằng sông Cửu Long.

Thịt của các loài bò sát rất thơm ngon, có hương vị đặc biệt và giàu chất dinh dưỡng. Chính vì vậy mà ngay từ thời xa xưa đã được con người ưa thích sử dụng. Đặc biệt là ở các tỉnh phía Nam Trung Quốc và vùng Đông Nam Á có lẽ là nơi sử dụng nhiều hơn cả. Có những cửa hàng ăn đặc sản chuyên bán thịt trăn, rắn, rùa, kỳ đà … chế biến thành các món ăn khá cầu kỳ. Ngay cả ởChâu Phi và Châu Mỹ, nơi mà có nhiều bộ lạc tôn thờ rắn thì lại có một số bộ lạc khác rất thích ăn thịt rắn. Hiện nay ở đồng bằng sông Cửu Long việc săn bắt rắn để làm thực phẩm còn khá phổ biến. Tính ra các cửa hàng tiêu thụ mỗi năm có đến hàng chục tấn!

Cùng với việc khai thác trăn làm thực phẩm, con người cũng đã khai thác trăn như là một nguồn dược liệu quý. Qua điều tra trong nhân dân, chúng tôi nhận thấy hầu hết các bộ phận của trăn đều được sử dụng làm thuốc.

  • Lấy da trăn đem đốt thành than, tán bột rồi trộn lẫn với mỡ, bôi trị ghẻ khuyết rất hiệu nghiệm. Một số người còn dùng da trăn cho heo ăn, thấy mau lớn (?)
  • Mật trăn ngâm trong rượu dùng để xoa bóp các vết thương tụ máu, nơi có các khớp bị sưng đau, tác dụng tương tự mật gấu. Còn dùng để chữa đau mắt sưng, vùng bụng tim đau có trùng cắn, bộ phân dưới âm hộ trùng ăn lở loét (Danh y biệt lục).
  • Thịt trăn làm ruốc (chà bông) cho sản phụ ăn hàng ngày giúp chóng lại sức, giảm đau nhức và tê mỏi (Đỗ Huy Bích, 1979)           .
  • Mỡ trăn chứa nhiều hợp chất béo như palmitin, oleiu… dùng để trị bệnh ngoài da (ghẻ lở, phỏng). Nó còn là một tá dược có tác dụng nuôi da và làm cho các vị thuốc khác được trộn lẫn, dễ thấm vào da hơn (Đinh bá Luyện và Diệu Phương)
  • Xương trăn đem nấu cao (có thể nấu cả xương lẫn thịt) uống có tác dụng chữa đau lưng, nhức xương, nhất là đau cột sống. Cũng có thể dung xương trăn nấu cao phối hợp với xương các động vật khác (khỉ, nai, beo rừng, gấu …) dùng để bồi bổ sức khỏe, tăng cường thể lực.
  • Máu trăn pha với rượu uống có tác dụng bổ máu, chữa bệnh chóng mặt, hoa mắt. Người dùng thấy trong người mát, khoan khoái dễ chịu.

Xin lưu ý bạn đọc, dẫu sao, các bài thuốc trên đây cũng chỉ là kinh nghiệm dân gian, đòi hỏi phải được kiểm nghiệm và chứng minh bằng cơ sở khoa học.

Bên cạnh đó thì giá trị của da trăn trên thị trường ngày càng trở nên hiếm và đắt là không thể chối cãi được. Da trăn cũng như da của nhiều loài rắn khác có hoa văn đẹp, lạ kỳ và có độ bền cao. Chính vì vậy mà người ta ra sức lùng bắt loài bò sát này làm cho chúng ngày một ít đi, thậm chí vắng mặt ở nhiều nơi. Tại Ấn Độ, hàng năm đã xuất khẩu trung bình 46 tấn da rắn (chủ yếu là da trăn), đạt tới mức kỷ lục vào năm 1962 là 133 tấn. Cho tới nay số lượng quần thể của nhiều loài đã bị tụt xuống rõ rệt, trong đó có trăn và nhà nước đã phải thi hành các biện pháp bảo vệ.

Nhân chuyện xuất khẩu cũng xin nói thêm rằng, hiện nay ở các nước công nghiệp phát triển, con người có xu hướng thích nuôi các loài bò sát cảnh giống như trước đây người ta đã nuôi chó, mèo, chim cảnhcá cảnh trong nhà. Ở Cộng hòa dân chủ Đức, một con trăn dài 2m trị giá từ 300 – 400 mác, tương đương với một chiếc xe đạp loại tốt nhất. Chính vì vậy mà chúng ta cũng có thể nghĩ tới việc xuất khẩu trăn và một số loài bò sát khác cùng với việc xuất khẩu phong lan, cá đĩa, chim yến phụng

Sau cùng, trở lại cái giá trị muôn thuở mà con trăn đã đem lại cho con người từ bao đời nay – đó là vai trò diệt lũ chuột và các loài gậm nhấm khác, góp phần bảo vệ mùa màng và hạn chế các bệnh dịch. Một con trăn trong một năm có thể ăn tới cả ngàn con chuột, chưa kể là từ số chuột ấy lại có khả năng sinh ra con cái, cháu chắt…

Gần đây ở nhiều nơi thuộc đồng bằng sông Cửu Long người ta đã nuôi trăn như là một động vật kinh tế trong gia đình. Trăn dễ nuôi và ít tốn công chăm sóc, chuồng trại đơn giản không chiếm nhiều diện tích, thức ăn dễ tìm và chi phí rẻ, trong khi đó thu hoạch lợi nhuận cao. Trong tình hình hiện nay một gia đình cán bộ nuôi 2 con heo là chật vật lắm rồi, thế nhưng có thể nuôi 4 – 5 con trăn một cách dễdàng mà thu nhập còn cao hơn. Có điều thú vị là nếu bạn vì một lý do nào đó (đi công tác xa hàng tháng hay đôi lúc làm biếng) không chăm sóc được thi con trăn vẫn kiên trì chịu đói mà chờ đợi.

Xem thêm bài viết

Kỹ Thuật Nuôi Trăn đẻ, sinh sản? Cách nuôi trăn con, cảnh?

Chế biến các sản phẩm từ con trăn

Khai thác và cách sơ chế, bảo quản

Sản phẩm có giá trị nhất của trăn là da. Tùy theo kích thước của da mà giá trị thương mại của nó có khác nhau. Theo quy định của Bộ ngoại thương, chia làm 3 loại như sau:

  • Da loại 1 : có chiều dài từ 3m trở lên
  • Da loại 2 : có chiều dài từ 2,5 – 3m
  • Da loại 3 : có chiều dài dưới 2,5m

Da phải nguyên vẹn không được thủng rách, độ căng vừa phải và sạch sẽ. Một mét da trăn giá thị trường trong nước hiện nay là 1500-2000đ. Để có một bộ da trăn tốt, có giá trị sử dụng hay xuất khẩu cao, chúng ta cần tiến hành theo các bước sau:

Bắt và giết trăn

Đối với một con trăn kích thước từ 2 – 3m thì việc bắt và giết loài bò sát cảnh này không phải là việc làm khó khăn cho lắm. Chúng ta có thể áp dụng các biện pháp giống như khi bắt và giết một con rắn lớn. Những con trăn nuôi trong chuồng thường ít hung dữ, cho nên chúng ta cò thể dùng tay bắt bình thường. Trường hợp gặp những con trăn “hơi khó tính” chúng ta phải sự dụng một số dụng cụ để bắt (xem hình vẽ). Sau khi đã bắt được trăn, dùng một đoạn dây (dây thừng, dây nilon, dây kẽm) buộc thắt thòng lọng vào cổ trăn rồi treo lên xà ngang. Chú ý không buộc trăn ở gần xà dọc vì trăn vùng vẫy và quấn chặt vào đó, khó thao tác. Dùng dao bén có mũi nhọn rạch một đường ở 1/3 dưới thân để cắt đứt động mạch lưng. Sau đó lấy một chậu sạch để hứng lấy máu. Cũng có thể giết trăn bằng cách dùng một đoạn dây thép xuyên qua hậu môn rồi treo ngược trăn lên xà ngang, đầu chúc xuống dưới. Dùng dao nhọn rạch một đường ở cổ trăn, tìm động mạch rồi cắt đứt cho chảy máu ra.

Cần lưu ý là trăn không dễ dàng gì chết ngay sau khi cắt tiết như gà vịt, do đó chúng ta phải đợi một thời gian cho nó hết vùng vẫy mới hạ dây xuống.

Lột và xử lý da:

Da trăn tuy có sức bền và độ đàn hồi cao nhưng khá mỏng so với da kỳ đà hoặc da cá sấu, lại có rất nhiều cơ bám da nên trong khi lột cần hết sức thận trọng. Đặt ngửa trăn trên một tấm ván rồi dùng dao rạch một đường chạy dài liên tục từ cằm cho tới lỗ hậu mận (hoặc mút đuôi). Sau đó dùng dao tách dần các cơ ra khỏi lớp da và nên lột từ trên xuống dưới. Tiến hành lạng (bằng dao) hay nạo (bang bàn bào) sạch những miếng cơ và mỡ còn dính lại trên da. Cuối cùng đem căng da trên một tấm ván dài để phơi khô; Dùng đinh đóng dọc hai bên mép để không bị co rút và cuốn mép trong quá trình phơi.

Chú ý:

  • Trước khi căng da nên rửa cho sạch máu và đất cát bám bên ngoài
  • Nên phơi da trong bóng râm mát và không nên phơi nơi có ánh nắng trực tiếp gay gắt.

Bảo quản:

  • Bảo quan da tươi: Trong trường hợp có thể tiến hành thuộc da sau khi lột khoảng một tháng trở lại, chúng ta không cần thiết phải phơi khô mà có thể bảo quản da tươi bằng cách tiến hành bôi một lớp phèn chua + muối hột đem giã nát theo tỉ lệ 1/2 rồi cuộn da lại để nơi râm mát và thoáng gió.
  • Bảo quản da khô: Da phơi khô có thể lưu trữ lâu hơn cho tới lúc được đem đi thuộc nhưng cần chú ý phải bảo quản nơi khô ráo, chống nấm mốc và đặc biệt là chống các loại côn trùng đục khoét.

Các sản phẩm dược liệu từ trăn

Cao trăn:

Trăn sau khi giết và lột da tiến hành mổ lấy hết mỡ và các nội quan bên trong. Dùng giấy bản lau sạch nhớt và máu còn dính lại trên mình trăn. Chặt thành từng khúc dài khoảng 20cm. Ngâm vào rượu hồi để khử mùi tanh (cứ 300g đại hồi cho 1 lít rượu) trong 2 – 3 giờ, rồi đặt lên than hồng nướng cho chín vàng. Chặt thành miếng nhỏ. Đổ nước cho ngập dược liệu 2 – 3cm. Đun sôi liên tục trong 2 ngày đêm. Chắt nước nhất ra cô. Đổ nước sôi vào tiếp tục nấu như trên để được nước 2 và nước 3. Tiếp tục cô lần lượt 3 nước đến khi được một khối cao sền sệt. Đổ dung dịch rượu 1% acid benzoic vào khuấy đều. Đun nhỏ lửa đến khi dùng dao mỏng và sắc cắt qua khối cao thấy hai mép cắt không khép dính vào nhau là được. Đổ cao lên một khay đã bôi dầu paraphin, ép mỏng thành bánh, để khoảng nửa ngày cho cao nguội và se lại. Cắt thành từng miếng 50 hay 100 gam gói giấy bóng hoặc pohetylen để bảo quản.

Rượu trăn:

Phương pháp chế biến rượu trăn cũng gần giống như cách chế biến rượu rắn. Có nhiều công thức và cách làm khác nhau, ở đây xin nêu cách thông dụng.

Giai đoạn đầu xử lý giống như cách nấu cao trăn, cho tới khi ta có được những khúc thịt (kể cả xương) đã nướng hay sấy khô, tán thành bột mà dùng hay ngâm rượu để uống. Khi ngâm rượu thường cho thêm các vị thuốc được dùng để chữa trị thấp khớp, nhức mỏi, đau mình và cho thêm một số vị thuốc có hương vị thơm để át mùi tanh của thịt bò sát.

Các vị thuốc thường được sử dụng là: đương quy, ngũ gia bì, khương hoạt, phòng phong, cam thảo, hà thủ ô, sinh địa, xuyên khung, mật ong.

Ngâm trong 3 tháng là dùng được.

Mỡ trăn:

  • Mỡ trăn chữa bỏng rất công hiệu. Dùng mỡ sống trộn với ít muối và tỏi giã nhỏ đựng trong lọ, đến khi mỡ tan là được. Hoặc rán lấy mỡ như rán mỡ heo. Mỡ trăn phối hợp với phèn phi và xác rắn lột chữa được bệnh tổ đỉa.

(Theo dược sĩ Đỗ Huy Bích,

Viện Dược liệu, Bộ Y Tế)

  • Lựa các miếng mỡ trăn cho vào nồi, chưng cách thủy cho tan hết, đem ra lược qua vải và khuấy cho đến khi nguội, đổ đầy vào lọ có màu, nút kín (để tránh ánh sáng và không khí làm hư). Khi dùng, lấy lá xuyên tâm liên hay củ nghệ phơi khô, tán mịn, trộn một phần bột với hai phần mỡ để bôi trị phỏng, lở loét, vết thương nhẹ hay ghẻ lở. có thể dùng da trăn, da rắn khô (do cỏ nhiều oxid kẽm) đốt cháy, lấy tro, than trộn với mỡ trăn để bôi. Trị ghẻ ngứa thì phải trộn với 10% lưu huỳnh.

Mỡ trăn phối hợp với 1 số nguyên liệu khác để chế kem Trangala dùng chữa vết bỏng, ghẻ lở mụn nhọt và làm mịn da mặt phụ nữ. Thuốc do XNLHD Minh Hải sản xuất.

Bệnh thường gặp ở trăn và cách điều trị

Trong tự nhiên, trăn là một trong những động vật có kích thước lớn nhất, vì vậy khó có kẻ thù nào tấn công được nó. Nhưng chúng ta cũng không được quên rằng, một con vật khổng lồ nào cũng phải bắt đầu từ kích thước nhỏ bé của nó. Chính vì vậy mà những con trăn con là mồi của một số động vật ăn thịt như chồn, cáo, chim ưng, ó và thậm chí cả kỳ đà…

Để bảo vệ sự sống và duy trì nòi giống của mình, trăn chống trả lại quyết liệt bằng cách quấn và xiết chặt chân hoặc cổ của đối phương và nhiều khi cũng tẩu thoát được. Trăn con có khả năng vượt qua giai đoạn hiểm nghèo của cuộc đời bằng cách tăng trưởng rất mau trong 2 – 3 năm đầu. Và để lẩn tránh, những con trăn con thường có màu sắc sặc sỡ phù hợp với môi trường xung quanh.

Như vậy kẻ thù thực tế còn lại đáng lo ngại nhất cho trăn (ngoại trừ con người ra) lại là những sinh vật nhỏ bẻ nhất – đó là những con vi khuẩn, nấm, giun, sán ký sinh. Bên cạnh đó trong quá trình nuôi cũng có thể phát sinh một số bệnh.

Đáng tiếc là hiện nay có quá ít tài liệu nói về các bệnh ở trăn trong khi bản thân chúng tôi chưa có điều kiện để đi sâu vào lĩnh vực này. Dưới đây chỉ xin giới thiệu một số bệnh của trăn mà chúng tôi đã gặp và cách điều trị theo kinh nghiệm bản thân.

Bệnh giun sán

Hầu hết trăn rừng cũng như trăn nhà đều có rất nhiều giun sán ký sinh trong đường ruột. Qua xét nghiệm, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ nhiễm giun sán ở trăn rừng cao hơn trăn nuôi trong chuồng. Nguồn lây lan cho trăn có thể bằng hai con đường, do trứng giun sán có sẵn trong đất và chủ yếu là trong thức ăn.

Phổ biến nhất là một loại giun tròn thuộc họ Giun đũa (Ascaridac) sống trong thực quản và dạ dày, đôi khi cũng gặp ở ruột non và phôi. Loại giun này không cần phải có vật chủ trung gian. Với kích thước hiển vi của trứng nằm trong phân, có thể chính ngay bản thân con trăn đó lại bị nhiễm một lần nữa. Ngoài giun tròn ra còn có một loại giun dẹp sống ở ruột non. Với cả hai loại giun này, nếu bị nhiễm ít sẽ không gây ảnh hưởng rõ rệt đối với đời sống của trăn, nhưng nếu bị nhiễm nhiều có thể hạn chế sự di chuyển thức ăn, gây tắc ruột và làm cho trăn gầy yếu, sức khỏe bị giảm sút mau chóng.

Có thể dùng Piperazin hoặc Decaris để tẩy theo định kỳ.

Qua thực tế, chúng tôi nhận thấy hai loại thuốc trên chưa phải có tác dụng đặc hiệu, do đó kết quả đạt được chưa cao. Mặt khác, bệnh giun sán đối với trăn không nguy hại như đối với gia súc, gia cầm nên việc cho uống thuốc tẩy định kỳ là không cần thiết (vì đối với trăn nuôi thịt chỉ cần nuôi trong thời gian trên dưới 2 năm).

Bệnh viêm lợi

Đây là một bệnh khá phổ biến ở trăn do nhiều nguyên nhân, có thể là do trăn bị xây sát khi húc đầu vào thành chuồng để tìm chỗ bò ra và sau đó là sự xâm nhập của các loại vi khuẩn và siêu vi khuẩn. Cũng có thể do thiếu sinh tố trong quá trình được cung cấp thực phẩm và cũng có thể do vệ sinh chuồng trại không tốt.

Triệu chứng của bệnh khá dễ phát hiện. Biểu hiện ban đầu là trăn ít chịu hoạt động, đầu hơi sưng, miệng bên ngoài bị lỡ. Vài ngày sau đầu sưng lo lên, lưỡi không thè ra thụt vào được, bên trong miệng đỏ có bựa trắng đóng dày, lợi viêm đỏ. Trăn bị mất khả năng ăn uống. Trường hợp nặng dẫn đến rụng răng, sau cùng trăn có thể chết.

Khi phát hiện thấy trăn có những biểu hiện trên cần nhanh chỏng cách ly sang một khu vực khác để điều trị vì bệnh này phát triển nhanh và dễ lây lan.

  • Dùng Pcnicilin 500.000 đơn vị chích ngày hai lần, mỗỉ lần một lọ trong 7 ngày liền.
  • Dùng cây cỏ mực (cây lọ nồi) giã nhỏ vắt lấy nước bôi vào bên trong miệng trăn nơi bị lở loét. Trước lúc bôi nước cỏ mực, rửa vết lở bằng nước muối pha loãng hay dung dịch thuốc tím 2%. Kiên trì xử lý trong nhiều ngày, bệnh sẽ thuyên giảm và hạ thấp được tỉ lệ tử vong.

Bệnh cảm cúm

Triệu chứng của bệnh là giống bò sát cảnh này bỏ ăn, nằm mội chỗ, miệng có nhiều nước nhờn, hai lỗ mũi có nước nhờn màu xanh chảy ra, trăn thở khò khè.

Điều trị bằng cách:

  • Dùng Strcptomicin chích mỗi ngày một lọ.
  • Dùng cây cỏ hôi (cỏ cứt lợn) và rau dấp cá giã nhỏ, cho vài hạt muối vào rồi vắt lấy nước nhỏ vào mũi và cho uống ngày 2 lần. Điều trị liên tục trong 7 – 10 ngày. Nếu thấy trăn hết thở khò khè thì không nhất thiết phải chích liên tục.

Bệnh táo bón

Trăn từ 1- 3 tháng tuổi thường hay bị bệnh táo bón nhất là đối với trăn chỉ cho ăn đơn điệu một loại thức ăn. Biểu hiện của bệnh là trăn không bài tiết được, phần cuối ống ruột phồng lên, phân khô cứng nằm chặn ở hậu môn. Vài ngày sau trăn có thể chết.

Đối với loại bệnh này không cần dùng thuốc để xử lý phức tạp mà chỉ cần dùng một cái kẹp sắt (pince) cho vào hậu môn để gắp phân ra. Đồng thời dùng tay nhẹ nhàng nặn cho phân dồn từ trên xuống dưới.

Để ngăn ngừa bệnh có thể tái diễn, nên thay đổi cho trăn ăn các loại thức ăn khác nhau và cho uống nước đều đặn.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *